Thống kê mới nhất, năm 2021 Việt Nam có 65 đại diện nội lực vào top nhà khoa học trích dẫn hàng đầu thế giới.
Hàng năm, việc công bố danh sách các nhà nghiên cứu thuộc tốp 100 ngàn các nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới theo Cơ sở dữ liệu Scopus là vấn đề rất được cộng đồng khoa học quan tâm.
Năm 2021, kết quả này đã tiếp tục được công bố bởi nhóm tác giả gồm TS. John P. A. Ioannidis (giáo sư thực thụ về y khoa, nghiên cứu sức khỏe và chính sách, khoa học dữ liệu y sinh và thống kê học thuộc Đại học Stanford, Mỹ), Jeroen Baas (giám đốc dữ liệu của Nhà xuất bản Elsevier, Hà Lan) và TS. Kevin Boyack (giám đốc điều hành của Công ty SciTech Strategies, Mỹ; chuyên về trắc lượng khoa học).
Việc sử dụng Cơ sở dữ liệu Scopus thuộc Nhà xuất bản Elsevier của Hà Lan làm cho kết quả của nhóm tác giả trở nên tin cậy và có ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng khoa học thế giới bởi lẽ Scopus là một trong hai cơ sở dữ liệu khoa học uy tín nhất trên thế giới hiện nay, bên cạnh Cơ sở dữ liệu Web of Science của Mỹ.
Trong năm nay, nhóm tác giả trên công bố các danh sách các nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học cao thuộc tốp 100.000 hoặc tốp 2% trên toàn thế giới gồm xét theo thành tựu trọn đời, thành tựu năm gần nhất và thành tựu theo chuyên ngành.
Đáng chú ý, Lắc tài xỉu trực tiếp đã có nhà khoa học nằm trong top 2% nhà nghiên cứu được trích dẫn hàng đầu thế giới năm 2021, đó là PGS.TS. Nguyễn Thành Chung, hiện đang đảm nhận vị trí Trưởng Khoa Khoa học Cơ bản.
Các tiêu chí dùng để đánh giá đẳng cấp trích dẫn khoa học của một nhà nghiên cứu gồm tổng số trích dẫn được chuẩn hóa, chỉ số H (H-index), chỉ số đồng tác giả (HM-index), chỉ số trích dẫn theo vị trí tác giả, chỉ số tự trích dẫn và không tự trích dẫn.
Như vậy, có thể thấy đẳng cấp trích dẫn khoa học được xem xét khá toàn diện, không phải thuần túy là tổng số trích dẫn khoa học mà một nhà nghiên cứu có đươc.
Trong bài viết này, hai danh sách được quan tâm là danh sách tốp 100.000 hoặc tốp 2% các nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học xét theo thành tựu trọn đời (career, tất cả các kết quả trích dẫn khoa học đến năm gần nhất) và theo năm (single year, kết quả trích dẫn khoa học của một năm gần nhất).
Trên tinh thần phát triển nội lực, bài viết chỉ quan tâm đến các nhà nghiên cứu có quốc tịch Việt Nam và đang là nhân sự cơ hữu thuộc các tổ chức thuộc Việt Nam (gọi tắt: nhà nghiên cứu nội lực).
Những nhà nghiên cứu có quốc tịch Việt Nam nhưng được liệt kê dưới tên đơn vị kiêm nhiệm thì không được xem xét.
Dù có sự giới hạn khá hẹp (nhưng đúng nghĩa nội lực) so với các kết quả thống kê gần đây nhưng kết quả trong bài này cho thấy có sự tăng mạnh những nhà nghiên cứu của Việt Nam trong tốp 100.000 hoặc tốp 2% các nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học cao trên toàn thế giới.
Cụ thể, trong năm 2021 Việt Nam có tổng cộng 22 nhà nghiên cứu được liệt kê trong tốp 100.000 hoặc tốp 2% nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới tính trên thành tựu trọn đời, và 65 người tương ứng tính trên thành tựu năm gần nhất.
Kết quả này là một sự đột phá rất đáng kể về sự nhận diện thông qua trích dẫn khoa học của các công trình nghiên cứu từ các nhà nghiên cứu nội lực của Việt Nam; bởi lẽ năm 2019 Việt Nam không có nhà nghiên cứu nội lực nào của Việt Nam được vào danh sách thành tựu trọn đời và chỉ có 10 người được vào danh sách thành tựu năm.
Bằng các phương pháp thống kê dữ liệu, phân tích dữ liệu thu thập từ nhóm tác giả trên, đối chiếu với dữ liệu gốc từ Cở sở dữ liệu Scopus và Web of Science và đối chiếu lực lượng nhân sự nội lực của các viện/đại học (trong đó có gọi điện trực tiếp để kiểm tra thông tin), các kết quả thu được như sau:
Thứ nhất, Đối với thành tựu trọng đời, Việt Nam có tổng cộng 22 nhà nghiên cứu nội lực được liệt kê trong tốp 100.000 nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới từ dữ liệu gốc.
Kết quả cho thấy có 13 tổ chức có nhà nghiên cứu nội lực có trích dẫn cao gồm 10 đại học và 3 viện nghiên cứu; trong đó có 1 viện nghiên cứu ngoài công lập và 2 đại học ngoài công lập; cụ thể là Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, ĐHQG TP.HCM, ĐHQG Hà Nội, ĐHSP Hà Nội, ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Công nghệ Giao thông Vận tải, ĐH Giao thông Vận tải TP.HCM, ĐH Dược Hà Nội, Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, ĐH Duy Tân, ĐH Phenikaa, ĐH Công nghệ TP.HCM và Viện nghiên cứu AI – Vingroup.
Điều rất đáng quan tâm là cả hai đại học ngoài công lập là ĐH Phenikaa và ĐH Duy Tân là có nhiều nhà nghiên cứu nhất (3 người), cùng với Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam (cũng có 3 người).
Có thể nói, những nhà nghiên cứu nội lực của Việt Nam được vào danh sách thành tựu trọn đời là những người có đẳng cấp cao về công bố và trích dẫn khoa học, kết quả này mang tính bền vững và ổn định hơn.
Cũng xin lưu ý thêm, trong danh sách thành tựu trọn đời của Việt Nam, có một nhà khoa học đã mất hai năm trước, Cố GS. Hoàng Tụy, Cố Viện trưởng Viện toán học Việt Nam. Công trình Scopus gần nhất của ông được công bố vào năm 2018.
Điều này thật sự rất thú vị vì các nhà nghiên cứu có thể không còn nữa nhưng những công trình của họ vẫn được sự quan tâm của cộng đồng khoa học trên toàn thế giới. Đây có thể là động lực để các nhà nghiên cứu chân chính dấn thân không mệt mỏi vào nghiệp nghiên cứu.
Từ đó, họ có thể để lại những công trình có ý nghĩa quan trọng cho chuyên ngành và có thể cho những ứng dụng góp phần cải tiến chất lượng cuộc sống của nhân loại. Và khi đó, nhà nghiên cứu có thể tồn tại mãi mãi dù họ có thể không còn nữa.
Thứ hai, Đối với thành tựu năm gần nhất, Việt Nam có tổng cộng 65 nhà nghiên cứu nội lực được liệt kê trong tốp 100.000 hoặc tốp 2% nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới từ dữ liệu gốc gồm:
Thông tin chi tiết được xếp theo thứ tự hạng giảm dần là:
Nhà nghiên cứu | Đơn vị | Hạng thế giới |
Nguyễn Đình Đức | ĐHQG Hà Nội | 5950 |
Lê Hoàng Sơn | ĐHQG Hà Nội | 6766 |
Nguyễn Xuân Hùng | ĐH Công nghệ TP.HCM | 6819 |
Võ Xuân Vinh | ĐH Kinh tế TP.HCM | 9529 |
Trần Nguyễn Hải | ĐH Duy Tân | 14750 |
Trần Xuân Bách | ĐH Y Hà Nội | 19882 |
Phạm Thái Bình | ĐH Công nghệ Giao thông Vận tải | 21589 |
Hoàng Đức Nhật | ĐH Duy Tân | 22302 |
Đặng Văn Hiếu | ĐH Thăng Long | 31140 |
Hoàng Anh Tuấn | ĐH Công nghệ TP.HCM | 32939 |
Phạm Văn Hùng | ĐHQG TP.HCM | 37521 |
Nguyễn Thời Trung | ĐH Tôn Đức Thắng | 46054 |
Trần Trung | ĐH Hòa Bình | 48770 |
Thái Hoàng Chiến | ĐH Tôn Đức Thắng | 50677 |
Nguyễn Trung Kiên | ĐH Giao thông Vận tải TP.HCM | 53487 |
Nguyễn Trương Khang | ĐH Tôn Đức Thắng | 62836 |
Nguyễn Trung Thắng | ĐH Tôn Đức Thắng | 66151 |
Lê Thái Hà | ĐH Fulbright Việt Nam | 74064 |
Nguyễn Đăng Nam | ĐH Duy Tân | 81654 |
Nguyễn Văn Hiếu | ĐH Phenikaa | 82172 |
Phùng Văn Phúc | ĐH Công nghệ TP.HCM | 83197 |
Nguyễn Hoàng Long | ĐH Mỏ – Địa chất Hà Nội | 94129 |
Đặng Văn Hiếu | ĐH Thăng Long | 104222 |
Đào Văn Dương | ĐH Phenikaa | 108442 |
Chu Đình Tới | ĐHSP Hà Nội | 110977 |
Vương Quân Hoàng | ĐH Phenikaa | 115981 |
Trần Đình Phong | Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam | 119201 |
Lê Văn Hiện | ĐHSP Hà Nội | 121703 |
Lê Văn Quyết | ĐH Duy Tân | 122357 |
Phan Thanh Sơn Nam | ĐHQG TP.HCM | 124623 |
Võ Nguyễn Đại Việt | ĐH Nguyễn Tất Thành | 130351 |
Nguyễn Đức Hòa | ĐH Bách khoa Hà Nội | 131688 |
Tạ Sơn Xuất | ĐH Bách khoa Hà Nội | 133211 |
Đỗ Minh Hoạt | ĐH Duy Tân | 134747 |
Nguyễn Quyên | ĐH Duy Tân | 137322 |
Lê Anh Tuấn | ĐH Hàng Hải Việt Nam | 138319 |
Bạch Long Giang | ĐH Nguyễn Tất Thành | 138947 |
Đào Tiến Khoa | Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam | 140933 |
Huỳnh Vĩnh Phúc | ĐH Đồng Tháp | 147636 |
Nguyễn Thời Trung | ĐH Tôn Đức Thắng | 148476 |
Đinh Gia Ninh | ĐH Bách khoa Hà Nội | 148576 |
Nguyễn Hải Nam | ĐH Dược Hà Nội | 150305 |
Lê Minh Quý | ĐH Bách khoa Hà Nội | 151654 |
Vũ Ngọc Phát | Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam | 155893 |
Phạm Văn Việt | ĐH Giao thông vận tải TP.HCM | 157490 |
Phạm Ngọc Anh | Học viện CNBCVT Việt Nam | 157573 |
Hoàng Văn Tùng | ĐH Kiến trúc Hà Nội | 162070 |
Đỗ Nguyễn Văn Vương | ĐH Tôn Đức Thắng | 162315 |
Trần Tuấn Hiệp | ĐH Phenikaa | 162396 |
Phạm Thanh Đồng | ĐHQG Hà Nội | 164299 |
Trần Vĩnh Lộc | ĐH Tôn Đức Thắng | 165970 |
Nguyễn Huy Tuấn | ĐHQG TP.HCM | 167251 |
Nguyễn Văn Chương | ĐH Kỹ thuật Lê Quý Đôn | 169046 |
Nguyễn Thành Chung | ĐH Quảng Bình | 169464 |
Nguyễn Thị Hồng | ĐH Cần Thơ | 171457 |
Nguyễn Ngọc Hiếu | ĐH Duy Tân | 172679 |
Nguyễn Công Lượng | ĐH Phenikaa | 173185 |
Lý Hải Bằng | ĐH Công nghệ Giao thông Vận tải | 173918 |
Trần Huy Hùng | ĐH Phenikaa | 175758 |
Võ Đình Bảy | ĐH Công nghệ TP.HCM | 180201 |
Đỗ Thị Hoa | ĐH Nguyễn Tất Thành | 185211 |
Đào Thanh Phong | ĐH Tôn Đức Thắng | 188289 |
Ninh Thế Sơn | Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam | 189398 |
Nguyễn Nhật Tân | ĐH Tôn Đức Thắng | 189665 |
Nguyễn Minh Đức | Bệnh viện nhi đồng 2 TP.HCM | 189853 |
Như vậy, Việt Nam có tất cả 29 tổ chức có nhà nghiên cứu nội lực được vào danh sách trên, trong đó có 2 viện nghiên cứu, 1 học viện, 1 bệnh viện và còn lại là các nhà khoa học nội lực đến từ các đại học.
Tổ chức có nhiều nhà nghiên cứu nội lực nhất trong danh sách là trường ĐH Tôn Đức Thắng, có 9 người và chiếm 13.8% trong tổng số trong cả nước. Các trường đại học ngoài công lập ĐH Duy Tân và ĐH Phenikaa tiếp tục có nhiều nhà nghiên cứu nội lực được liệt kê vào danh sách này, tương ứng có 7 và 6 người.
Các trường ĐH ở Đồng Bằng Sông Cửu Long và ở Miền Trung cũng có nhà khoa học nội lực trong danh sách này gồm ĐH Cần Thơ, ĐH Đồng Tháp và Đại học Quảng Bình.
Có thể có ý kiến cho rằng các nhà nghiên cứu được liệt kê vào danh sách thành tựu trọn đời thì đẳng cấp hơn những nhà nghiên cứu được liệt kê vào danh sách năm.
Tuy nhiên, việc so sánh hay xếp hạng thì lúc nào cũng dễ tranh cãi. Thực tế thì danh sách thành tựu trọn đời thường dành cho các nhà nghiên cứu lâu năm hơn, có trích dẫn tương đối ổn định.
Những nhà nghiên cứu trẻ thì ít khi được liệt kê vào danh sách này vì việc có trích dẫn khoa học cao trong thời gian ngắn nói chung là rất khó, có thể trừ những trường hợp hết sức ngoại lệ và đặc biệt xuất sắc.
Đối với danh sách thành tựu năm gần nhất, việc đánh giá trích dẫn khoa học được lấy trong năm gần nhất (theo định nghĩa) những có thể nói đó là thành tựu “chín mùi” của các nhà nghiên cứu; thực tế thì các nhà nghiên cứu này đã xây dựng nền tảng từ trước đó nhiều năm và để năm gần nhất có được thành tựu trích dẫn cao.
Tuy nhiên, qua thực tế của Việt Nam, có thể dễ thấy là việc được vào danh sách thành tựu trọn đời thì nói chung là khó hơn vào danh sách thành tựu năm gần nhất.
Những thành tựu trên cho thấy sự bứt phá của các đại học Việt Nam trong nghiên cứu khoa học và đặc biệt là trích dẫn khoa học. Việc này đã góp phần quan trọng vào quá trình nâng cao chất lượng nghiên cứu và giáo dục của đất nước, cũng như việc tăng cường sự nhận diện của thương hiệu Việt Nam/các tổ chức nghiên cứu của Việt Nam trên phạm vi toàn cầu. Và về phương diện xếp hạng đại học quốc tế thì trích dẫn khoa học là một tiêu chí rất quan trọng, có khi mang tính quyết định để các đại học Việt Nam được các tổ chức xếp hạng đại học thế giới ghi nhận.
Việc công trình được trích dẫn cao và được ứng dụng vào thực tiễn để phát triển thành các công nghệ/chính sách giúp ích cho cuộc sống hoặc có giá trị thương mại cao thông thường là hai khái niệm khác nhau.
Số lượng trích dẫn khoa học đến một cách tự nhiên thì nói chung là khó và khi đó thành tựu trích dẫn cao rất đáng được trân trọng nhưng việc này chỉ dừng ở khía cạnh nhận diện cho các công trình nghiên cứu, chứ việc được trích dẫn cao chưa phải là yếu tố quyết định cho giá trị đích thực của một công trình nghiên cứu như đã nêu.
Ngoài ra, vẫn có các kỹ thuật để tăng trích dẫn khoa học và số lượng trích dẫn khoa học có được từ các kỹ thuật này thì có thể xem là trích dẫn ảo. Việc tăng trích dẫn khoa học theo hướng trích dẫn ảo thì không được ủng hộ.
Tóm lại, tình hình phát triển nghiên cứu khoa học của Việt Nam là khả quan trong thời gian qua. Việc các công trình nghiên cứu của Việt Nam được trích dẫn cao thì bước đầu là một sự nhận diện quan trọng trên phạm vi toàn cầu.
Thành tựu này chắc chắn là kết quả của những chính sách phù hợp, tiếp cận thông lệ quốc tế trong nghiên cứu khoa học của Việt Nam trong thời gian qua, trong đó có chính sách tự chủ cho các cơ sở nghiên cứu và giáo dục đại học của đất nước.
Bước tiếp theo chắc chắn là sẽ không chỉ dừng ở số lượng trích dẫn mà là việc đưa ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu vào thực tiễn cuộc sống để Việt Nam có thể sở hữu thêm nhiều công nghệ, phát triển thêm nhiều chính sách và khi đó sản phẩm nghiên cứu sẽ đóng góp nhiều hơn nữa vào GDP của đất nước thông qua việc thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu.